Diễn biến Chiến_dịch_tấn_công_Proskurov–Chernovtsy

Đến cuối ngày 3 tháng 3, trên tiền duyên của Phương diện quân Ukraina 1 đã tập trung 56 sư đoàn bộ binh, 6 sư đoàn kỵ binh, 7 quân đoàn xe tăng và cơ giới, 2 cụm pháo binh dã chiến với 24 trung đoàn pháo và súng cối. Đối diện với họ, các Tập đoàn quân xe tăng 1 và 4 (Đức) có 25 sư đoàn, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng và cơ giới, 1 trung đoàn và 6 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng, 12 trung đoàn pháo tự hành, 2 cụm tác chiến độc lập, 11 trung đoàn pháo binh. Các đơn vị này được các Tập đoàn quân không quân 4 và 8 yểm hộ. Các ước lượng tình báo được báo cáo lên Thống chế Erich von Manstein và Tổng tham mưu trưởng quân đội Đức Quốc xã, tướng Kurt Zeitzler đều cho rằng, hướng tấn công tiếp theo của Quân đội Liên Xô sẽ nhằm vào Lvov - Peremysl. Ngày 4 tháng 3 được chọn là ngày N của Phương diện quân Ukraina 1 và họ chọn điểm đột phá ở nơi quân Đức ít ngờ tới nhất và tiến công theo hướng khác hẳn với phán đoán của cơ quan tình báo quân sự Đức.

Hướng chủ công của Phương diện quân Ukraina 1

Chọc thủng các tuyến phòng ngự vòng ngoài

Quân đội Liên Xô tấn công và bao vây Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức)

8 giờ 00 sáng ngày 4 tháng 3, sau 30 phút pháo binh bắn dọn đường, Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 60 (Liên Xô) phát động tấn công trên hướng Shumskoys - Kremenets và Yampol - Belogorye. Ngay sau khi bộ binh vượt qua được tuyến phòng thủ đầu tiên của quân Đức, các Tập đoàn quân xe tăng 4 và cận vệ 3 lập tức được tung vào đột phá khẩu. Đến cuối ngày 5 tháng 3, đòn tấn công bằng cả hai "quả đấm thép" của hai tập đoàn quân xe tăng Liên Xô đã chọc sâu từ 25 đến 45 km thủng tuyến phòng thủ thứ hai của quân Đức trên một chính diện rộng gần 50 km từ Yampol đến Yzyaslav, phía Nam Shepetovka. Ngày 5 tháng 3, tướng Hans-Valentin Hube điều các sư đoàn xe tăng 6, 19, các sư đoàn bộ binh 96 và 245, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 88 và 203 từ Proskurov kéo lên phản kích. Các sư đoàn xe tăng Đức công kích ác liệt vào nhà ga đầu mối Ostrov. Đến cuối ngày 7 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 4 do tướng V. N. Badanov được điều đến cửa đột phá, hợp lực với Tập đoàn quân cận vệ 1 và cánh trái của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 đẩy lùi đòn phản kích của các sư đoàn xe tăng Đức, dồn quân Đức về phía Starokonstantinovka. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) đánh chiếm Ostrov, cắt đứt giao thông đường sắt giữa Proskurov và Tarnopol.[22]

Ở cánh phải của cụm xung kích, ngày 7 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 60 đã vượt qua Volochisk, tấn công xuống phía Nam. Các sư đoàn xe tăng 11 và 16, trong đó có các tiểu đoàn xe tăng hạng nặng 616 và 731 cùng sư đoàn bộ binh 208 (Đức) cũng tổ chức phản kích từ Yarmolintsy lên Chernyi (???) nhưng không ngăn được dòng thác xe tăng Liên Xô từ phía Bắc tràn xuống. Sau một ngày kịch chiến tại thị trấn Chernyi, các sư đoàn xe tăng Đức phải rút về Gusyatin.[23] Các sư đoàn xe tăng 6, 19 (Đức) phải rút về Solobkovtsy do không chống lại được đòn tấn công của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) nhưng vẫn tiếp tục phản kích vào bên sườn Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) lúc này đã tiến đến gần Gusyatin.[24]

Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân 38 triển khai Quân đoàn bộ binh 67, được tăng cường Quân đoàn xe tăng 25 tấn công trên khu vực Vinitsa. Cuộc tấn công bị hoãn lại ba ngày vì phải đối phó với đoàn phản kích của Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) tại phía Tây Lipovets. Cùng thời điểm, Quân đoàn bộ binh 101 (Tập đoàn quân 38) tổ chức tấn công theo tuyến Starokonstantinov, Nemirovka và Zhmerinka. Ngày 11 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 67 đã đánh bật đòn phản kích của sư đoàn xe tăng 1 SS và các lữ đoàn cơ giới 249, 300 (Đức) tại Lipovets và bắt đầu tấn công dọc theo đường cao tốc Fastov - Vinnitsa. Quân đoàn xe tăng 25 đã vượt lên phía trước, đánh chiếm Troshchiev (???), Voronovitsa, Demidovka, vây bọc Vinnitsa từ phía Nam. Quân đoàn bộ binh 67 tiến công liên tục từ Bogdanovka, Lipovets lần lượt đánh chiếm các cứ điểm Vladimirovka, Mervin, Lopatinka. Ngày 14 tháng 3, lợi dụng kẽ hở giữa Tập đoàn quân 38 và Tập đoàn quân 40 (Phương diện quân Ukraina 2), Quân đoàn bộ binh (Đức) sử dụng các sư đoàn bộ binh 75 và 82 tổ chức phản kích vào Ilintsy. Quân đoàn xe tăng 2 được điều động chuyển hướng sang cánh trái, khôi phục tình hình tại Ilintsy. Cuộc công kích đánh chiếm Vinitsa chỉ do một mình Quân đoàn bộ binh 101 thực hiện nên bị chậm trễ vài ngày. Ngày 20 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 101 mới vào được Vinitsa. Các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900 và Lữ đoàn pháo chống tăng 23 được điều động vọt tiến lên phía trước nhanh chóng đánh chiếm cây cầu đường sắt, thọc sâu qua sông Nam Bug, đánh chiếm Zhmerinka ngày 21 tháng 3 và phát triển theo hướng Kopaygorod.[25]

Ở phía Tây, ngày 10 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) hành quân đường bộ từ Shepetovka luồn theo sau các tập đoàn quân xe tăng 4 và cận vệ 3 (Liên Xô) đã đến phía Đông Tarnopol 20 km. Nguyên soái G. K. Zhukov giao cho Tập đoàn quân 60 tấn công Tarnopol với sự tăng viện của Quân đoàn xe tăng cận vệ 4. Tập đoàn quân xe tăng 1 tiếp tục tiến xuống Chertkov theo đúng kế hoạch.[26] Ngày 11 tháng 3, một trận kịch chiến giữa Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) và các sư đoàn xe tăng 6, 17, 19 (Đức) đã diễn ra tại phía nam Ostrov, bên kia con đường sắt Proskurov - Tarnopol. Sau các đòn phản kích của quân Đức, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 (Liên Xô) phải dừng lại. Trong khi quân đội Đức quốc xã đang lo đối phó với ba cánh quân xe tăng cùng lúc xuất hiện thì Tập đoàn quân 4 (Liên Xô) giáng đòn đột kích quyết định vào Khmelnik và tiếp tục tấn công Proskurov từ phía Đông. Ngày 13 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) tiếp tục tung ra 200 xe tăng chặn đánh Tập đoàn quân xe tăng 4 tại khu vực Arkadievtsy, Shpichentsy, Davydkovtsy, buộc Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) phải quay mũi xuống phía Nam đối phó. Ngày 16 tháng 3, 100 xe tăng Đức được sử dụng cùng với sư đoàn bộ binh 254 chặn đánh Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 ngay trước cửa ngõ phía Bắc Proskurov. Ngày 18 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được Tập đoàn quân 18 chi viện đã chặn đứng đón phản công của quân Đức ở Ostrov.[14]

Ở cánh cực Bắc, Tập đoàn quân 13 đã triển khai tấn công từ ngày 11 tháng 3. Ngày 13 tháng 3, Quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và Quân đoàn bộ binh 24 đánh chiếm Dubno và đến ngày 16 tháng 3 đã đột nhập vào Beretechko. Quân đoàn kị binh cận vệ 6 phối hợp với Quân đoàn bộ binh 27 đánh chiếm Kremenets và đến ngày 17 tháng 3 đã giải phóng Brody, khép chặt sườn phải của các tập đoàn quân xe tăng Liên Xô đang tấn công xuống phía Nam. Tướng Erhard Raus phải điều động Quân đoàn bộ binh 13 (Đức) vừa được tăng cường Sư đoàn bộ binh 361 từ Đan Mạch đến để chặn cuộc tấn công của Tập đoàn quân 13 tại tuyến Brody - Beretechko.[16]

Các cuộc phản kích liên tục của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) đã buộc Phương diện quân Ukraina 1 phải điều chỉnh lại kế hoạch và bố trí lại lực lượng. Từ ngày 20 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được giao nhiệm vụ phối hợp với Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân cận vệ 1 giải quyết dứt điểm cụm phòng ngự của quân Đức tại Proskurov, Yakmolintsy, Solobkovtsy trước ngày 28 tháng 3. Tập đoàn quân xe tăng 4 tiến công dọc theo nhánh sông Khoryn (chi lưu của sông Dniestr), đến ngày 30 tháng 3 phải giải quyết xong các cụm cứ điểm dọc sông Khoryn, trong đó có các cụm chốt quan trọng như Gusyatin, Balin, Orinin, từ phía Tây đánh chiếm Kamenets Podolsky tiến xuống Khotin. Tập đoàn quân xe tăng 1 tấn công dọc theo Thung lũng sông Zalozh, đến ngày 30 tháng 3 phải vượt qua được các cứ điểm Chertkov, Tolstoye, Borshev, Zaleschyky và đánh chiếm Chernovtsy. Tập đoàn quân 38 đến ngày 30 tháng 3 phải vượt qua Kopaygorod, đánh chiếm Novo Ushitsya và tấn công Kamenets Podolsky từ phía Đông. Tập đoàn quân 60 đến ngày 30 tháng 3 phải đánh chiếm Tarnopol, khép chặt sườn phải của Tập đoàn quân xe tăng 1 và triển khai phòng thủ trên tuyến sông Zalozh. Sau khi điều chỉnh lại lực lượng, ngày 21 tháng 3, Phương diện quân Ukraina 1 tiếp tục tấn công.[14]

Đánh chiếm Tarnopol, Proskurov và Kamenets Podolsky

Quân đội Liên Xô hội ý tại chiến hào

Ngày 21 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 và Tập đoàn quân 18 đã phối hợp đột kích vào hai bên sườn 3 sư đoàn xe tăng và 1 sư đoàn bộ binh Đức đang phòng thủ phía Bắc Proskorov. Tướng P. A. Rybalko điều Quân đoàn xe tăng cận vệ 7 vòng ra phía Đông Proskurov, đột kích vào sau lưng các sư đoàn xe tăng Đức đang giao chiến với Quân đoàn xe tăng cận vệ 6 tại Ostrov. Quân đoàn cơ giới 9 phối hợp Quân đoàn bộ binh 52 thâm nhập vào Proskurov từ hướng Đông. Bị đột kích bất ngờ từ phía sau lưng, các sư đoàn xe tăng Đức bị đánh bật sang phía Tây Proskurov và rút lui theo đường sắt về Yarmolintsy. Ngày 25 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 tiến vào giải phóng Proskurov.[22]

Ngày 23 tháng 3, Tập đoàn quân 60 tràn ngập cứ điểm Romanovka do Sư đoàn bộ binh 340 (Đức) phòng thủ và đột kích vào Tarnopol. Tập đoàn quân xe tăng 1 đánh chiếm ngã ba đường sắt quan trọng Chertkov. Đến 10 giờ ngày 24 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 thuộc tập đoàn quân sau khi vượt qua Tolstoye đã tiếp cận sông Dniestr. Cũng trong ngày 24 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 đã đánh chiếm Borshev và chiều tối ngày 25 tháng 3 đã chiếm giữ cây cầu đường sắt rất quan trọng tại Zaleschiki.[13] Tấn công ở giữa cụm xe tăng xung kích Liên Xô, Tập đoàn quân xe tăng 4 phải đối phó với nhiều đòn phản kích liên tục của Quân đoàn xe tăng 46 (Đức) dọc theo Thung lũng sông Khoryn. Sức kháng cự của quân Đức tăng lên rất mạnh ở khu vực Pyanikorun (???) và Orinin, Tây Bắc Kemnets Podolsky. Vì Tập đoàn quân xe tăng 4 không có bộ binh, G. K. Zhukov phải điều động Sư đoàn bộ binh 148 từ Tập đoàn quân 60 sang hỗ trợ cho Quân đoàn xe tăng cận vệ 10; Quân đoàn bộ binh 28 cũng được điều sang phía Đông phối thuộc cho Tập đoàn quân xe tăng 4. Có bộ binh hỗ trợ nhưng cũng phải đến 16 giờ ngày 23 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 mới nhổ được các cụm chốt Gzhimaliv (???) và Okno. Ngày 24 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 4 tiếp tục vượt qua các cứ điểm Kopychintsy và Skala. Tốc độ tấn công của tập đoàn quân đã chậm lại so với kế hoạch. 10 giờ ngày 24 tháng 3, tướng D. D. Lelyushenko nhận được mệnh lệnh từ Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 yêu cầu:

Tập đoàn quân xe tăng 4 phải đẩy nhanh tốc độ tấn công để đến ngày 25 tháng 3 phải làm chủ Kamenets - Pdolsky. Trong đêm 24 và muộn nhất đến sáng ngày 25 tháng 3 phải đánh chiếm các cây cầu và bến vượt sông tại khu vực Zhvanets - Khotin. Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 phải chốt chặn các nút giao thông Chemerontsy (???), Smotrich, Dunaevtsy, Lyantskorun (???). Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 khi tấn công phải cảnh giới chặt chẽ hướng Yarmolyntsy, ngăn không cho quân Đức đột phá về hướng Tây Nam.
— Konstantinov, [23]

Ngày 25 tháng 4, Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 sau khi đánh bật các đòn phản kích của Sư đoàn xe tăng 1 SS đã đánh chiếm một kho quân sự lớn của Đức tại Skala, thu 40 xe tăng, thiết giáp và 55 khẩu pháo. Ngày 25 tháng 3, Lữ đoàn xe tăng cận vệ 61 (Tập đoàn quân xe tăng 4) và Lữ đoàn cơ giới 20 (Tập đoàn quân xe tăng 1) đã đánh bật trung đoàn trắc vệ Đức khỏi thị trấn Zinkovtsy (???) và vượt sông Dniestr tại Zaleschiki Ustechko (Ustechko).[27]

Đêm 25 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 (Tập đoàn quân xe tăng 4) và Quân đoàn cơ giới 9 (Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3) bắt đầu công kích Kamenets - Podolsky. Theo tin tức ban đầu từ quân báo của Phương diện quân Ukraina 1, quân Đức phòng thủ tại thành phố có khoảng 9.000 người, 85 xe tăng, 62 khẩu pháo và hơn 300 súng máy. Ngày 26 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 28 và hai quân đoàn cơ giới Liên Xô đã lần lượt tiêu diệt các cụm chốt của quân Đức trong thành phố. Chiến sự lớn nhất diễn ra tại tòa nhà Tureshky, nơi quân Đức cố ngăn chặn quân đội Liên Xo tiến sang bên kia sông Smotrich và Muktsa, nơi chủ lực Tập đoàn quân xe tăng 1 đang bị các tập đoàn quân 38 và xe tăng cận vệ 3 truy kích từ tuyến Proskurov, Solobkovtsy, Novo Ushitsya đổ dồn về đó. 20 giờ ngày 26 tháng 3, Quân đội Liên Xô hoàn thành việc đánh chiếm Kamenets Podolsky.[14] 21 sư đoàn Đức, trong đó có 10 sư đoàn xe tăng, cơ giới đã bị vây tại phía Đông Bắc Kamenets Podolsky, trên khu vực Dunayevtsy, Minkovtsy, Novo Ushitsa, Lyantskorun.[28]

Bị thiệt hại nặng nề sau các trận đấu xe tăng quyết liệt ở khu vực Ostrov và cửa ngõ Proskurov. Ngày 28 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 được rút về Kiev để củng cố lại. Quân đoàn xe tăng 25 được điều đến thay thế vị trí của Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3. Trong khi đó, Kamenets Podolsky đã trở thành một chiếc nút chặn Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Tuy nhiên, việc tập trung binh lực của Tập đoàn quân xe tăng 4 đã bị tiêu hao vào cái nút này cùng với việc Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh Liên Xô rút Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 khỏi mặt trận của đã làm cho tuyến bao vây bên trong của Phương diện quân Ukraina 1 bắt đầu xuất hiện những "đứt gãy" ở khu vực Balin, nơi tiếp giáp giữ Tập đoàn quân xe tăng 4 với Tập đoàn quân cận vệ một trong khi Tập đoàn quân xe tăng 1 đã tiến sâu xuống phía Nam.[29]

Đánh chiếm Chernovtsy và hình thành các tuyến bao vây

Du kích Liên Xô hoạt động trong hậu phương quân Đức

Sau khi chiếm giữ cây cầu đường sắt còn nguyên vẹn tại Zaletsiky, ngày 25 tháng 3, Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 và Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 (Tập đoàn quân xe tăng 1) cùng song hành tiến về phía Nam. Ngày 26 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 11 phối hợp với Tập đoàn quân cận vệ 1 mở hướng tấn công sang phía Tây, đánh chiếm thị trấn Kolomyia trên thượng nguồn sông Prut. Quân đội Liên Xô đang tiến quân trên con đường mà quân kỵ binh Podolsk của Ukraina khi xưa do Bogdan Khmelnitsky, anh hùng dân tộc Ukraina chỉ huy đã đi qua. Chiều 25 tháng 3, Lữ đoàn cơ giới 20 (Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 khi tấn công làng Romanovka đã vấp phải nhiều ổ hỏa lực súng chống tăng và súng máy của quân Đức. Lữ đoàn này phải dừng lại phòng ngự lâm thời, chờ xe tăng đến phối hợp. Không để chậm tốc độ tấn công, 17 giờ cùng ngày, tướng M. E. Katukov tung Lữ đoàn xe tăng 47 còn đủ quân số và trang bị từ lực lượng dự bị đến tiếp ứng. 22 giờ đếm 25 tháng 3, các ổ hỏa lực của quân Đức lần lượt bị dập tắt. Lữ đoàn xe tăng 47 và Lữ đoàn cơ giới 20 đột nhập nhà ga Moshi (???), phía Bắc Chernovtsy.[26]

Sang 26 tháng 3, phát hiện xe tăng Liên Xô xuất hiện ở Moshy, Quân đoàn xe tăng 48 (Đức) tổ chức phản kích. Cả hai sư đoàn xe tăng 2 SS và 8 (Đức) đều đổ dồn về cây cầu Zaleshika chặn đánh Quân đoàn cơ giới cận vệ 8 (Liên Xô) đang vượt qua cây cầu này. Mặc dù chặn được xe tăng Liên Xô dọc con đường sắt Zaleshika- Chernovtsy nhưng Quân đoàn xe tăng 42 (Đức) đã để hở hướng Đông. Tối 25 tháng 3, trinh sát cơ giới của Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 (Liên Xô) phát hiện các bãi cạn trên đoạn sông Dniestr gần làng Zastavnyi (Zastavna) và Varenchanky (Verenchanka). Ngay trong đêm, tướng A. L. Ghetman, tư lệnh quân đoàn đã bí mật tổ chức cho xe tăng vượt sông ngay tại các bãi cạn này. Sáng 26 tháng 3, Quân đoàn xe tăng 11 bất ngờ đột kích vào sân bay Chernovtsy, thu 40 máy bay Đức đang chuẩn bị cất cánh nhằm vào các xe tăng Liên Xô đang chiến đấu với 2 sư đoàn xe tăng Đức phía trước cây cầu bắc qua sông Prut.[13] Đòn đột kích bất ngờ của Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 (Liên Xô) buộc các tướng Otto Weidinger, tư lệnh Sư đoàn xe tăng 2 SS và Gottfried Frölich, tư lệnh Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) phải kéo quân sang phía Tây để tránh bị bao vây tiêu diệt. Ngày 27 tháng 3, tại Kolomyia, các sư đoàn xe tăng này đánh bật những đội trắc vệ mỏng yếu của Quân đoàn bộ binh 11 (Liên Xô) và chạy thoát về Stanislav và bị không quân Liên Xô truy kích trên suốt dọc đường rút lui. Phòng thủ tại Chernovtsy chỉ còn trơ lại Sư đoàn bộ binh 208 (Đức). Ngày 28 tháng 3, 4 lữ đoàn xe tăng, 2 lữ đoàn cơ giới và Sư đoàn bộ binh 24 đã đánh chiếm Chernovitsy, chấm dứt sự có mặt trong 2 năm 9 tháng của quân đội Đức Quốc xã tại thành phố này. Tàn quân của Sư đoàn bộ binh 208 (Đức) tháo chạy về phía Nam, đến Romania. Ngày 29 tháng 3, Quân đoàn bộ binh 11 (Tập đoàn quân xe tăng 1) và Quân đoàn bộ binh 47 (Tập đoàn quân cận vệ 1 còn tiến về phía Tây thêm 60 km và phía Nam thêm hơn 35 km, thiết lập vành đai phòng thủ trên tuyến Tây Kolomyia - Kumy (???) - Krasnoylsk (???). Ngày 29 tháng 3, Moskva bắn 224 loạt đại bác chào mừng Phương diện quân Ukraina 1 đã tiến ra biên giới Liên Xô (1940).[14]

Với việc đánh chiếm Chernovtsy và Kolomyia, Phương diện quân Ukraina 1 đã hoàn thành mục tiêu lập vòng vây bên ngoài xung quanh 21 sư đoàn Đức đang mắc kẹt tại khu vực Đông Bắc Kamenets - Podolsky. Tuy nhiên, vòng vây này còn quá mỏng so với những gì mà Quân đội Liên Xô đã tạo được tại Stalingrad tháng 11-12 năm 1942. Sự suy yếu của Tập đoàn quân xe tăng 1 sau khi đột kích sâu đến gần 200 km tính từ Volochisk cũng như sự suy yếu của Tập đoàn quân xe tăng 4 ở phía trong và việc buộc phải rút Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 3 khỏi chiến dịch đã làm cho vòng vây này không được liên tục. Thêm vào đó, sự chậm chạp của cánh phải Phương diện quân Ukraina 2 cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tốc độ phát triển chiến dịch bị kéo dài, tạo cơ hội cho quân Đức có thời gian củng cố lại binh lực và phá vây từ hai phía.[29]

Hướng phụ công của Phương diện quân Ukraina 2

Phương diện quân Ukraina 2 có nhiệm vụ riêng; đó là đánh bại Tập đoàn quân 8 (Đức), tiến ra biên giới Liên Xô - Romania với cự ly chiều sâu nhiệm vụ lớn không kém Phương diện quân Ukraina 1. Mặc dù có binh lực tương đương với Phương diện quân Ukraina 1 nhưng do không có những bàn đạp thuận lợi như ở Phương diện quân Ukraina 1 nên trong quá trình chiến dịch, các tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraina 2 phải ba lần vượt qua các con sông Nam Bug, Dniestr và Prut. Hiểu rõ những khó khăn của Phương diện quân khi phát động tấn công ngay sau khi vừa hoàn thành Chiến dịch hợp vây Korsun-Shevchenkovsky nhưng vì lợi ích chung của toàn mặt trận, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô vẫn giao cho I. S. Konev nhiệm vụ phối hợp với Phương diện quân Ukraina 1 hợp vây cánh quân Đức tại Proskurov - Kamenets Podolsky. Để hoàn thành trách nhiệm phối hợp này, Tập đoàn quân 40 và một phần Tập đoàn quân xe tăng 6 được giao nhiệm vụ hiệp đồng với Tập đoàn quân 38 duy trì tốc độ tấn công, che chắn kín đáo các bên sườn và tiến đến thị trấn Khotin trên bờ sông Dniestr đúng thời hạn quy định.[1]

Do các sư đoàn xe tăng 1, 16, 17 và sư đoàn xe tăng 1 SS đã được điều sang phía Tây để đối phó với các Tập đoàn quân xe tăng 3 và 4 (Liên Xô) nên phía trước Phương diện quân Ukraina 2 chỉ còn 20 sư đoàn bộ binh và 4 sư đoàn thiết giáp thuộc Tập đoàn quân 8 (Đức). Khối quân mạnh nhất của Tập đoàn quân 8 (Đức) đóng tại Uman gồm 5 sư đoàn bộ binh và 3 sư đoàn thiết giáp. Mặc dù những đơn vị này đã bị "sứt mẻ" đáng kể tại Korsun-Shevchenkovsky nhưng vẫn còn khả năng phòng ngự cứng rắn sau khi được bổ sung binh lực và phương tiện. Trong kế hoạch tấn công, Tập đoàn quân xe tăng 6 được bố trí ở thê đội 2 và chỉ được đưa vào phát triển tấn công ở giai đoạn 2, khi Phương diện quân đã tiến ra tuyến sông Nam Bug.[30]

Ngày 5 tháng 3, Tập đoàn quân 40 bắt đầu đột kích từ khu vực Rizino vào Khristinovka và điểm cao 244,7. Đến cuối ngày, Tập đoàn quân này đã tạo được một bàn đạp rộng 8 km. Ngày 6 tháng 3, Tập đoàn quân 27 cũng tấn công từ Ryzhanovka về Talnoye và Uman. Đến ngày 7 tháng 3, cả hai tập đoàn quân đều vượt sông Gornyi Tikich và tiến đến tuyến Kishintsy (???), Monastyrysche. Ngày 8 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng được đưa đến dải tấn công của Tập đoàn quân 27 và đẩy nhanh tốc độ đánh chiếm đầu mối đường sắt Khristinovka. Ngày 10 tháng 3, các lữ đoàn cơ giới 9 và 45 (Quân đoàn cơ giới cận vệ 5) đã có mặt ở Gaysin. Từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 3, Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 hợp lực với Tập đoàn quân 40 vượt sông Nam Bug tại Ladyzhin trong điều kiện Sư đoàn cơ giới "Đại Đức" phản kích quyết liệt, nhiều lần hất bộ binh và xe tăng Liên Xô sang tả ngạn sông Nam Bug. Đến ngày 16 tháng 3, khi Lữ đoàn xe tăng 233 bắt kịp đội hình của Quân đoàn cơ giới cận vệ 5, quân đoàn này mới mở rộng được bàn đạp Ladyzhin và dồn quân Đức về Vapnyarka. Ngày 17 tháng 3, Tập đoàn quân 40 cũng thừa thắng đánh chiếm thị trấn Tulchinsk (Tulchyn). Ngày 19 tháng 3, Tập đoàn quân xe tăng 6 đánh chiếm đầu mối giao thông Mogilev - Podolsky và phải dừng lại vài ngày trước sông Dniestr chờ Tập đoàn quân 27 đuổi theo. Trong khi đó, Tập đoàn quân 40 của tướng F. F. Zhmachenko di chuyển lên phía Bắc và ngày 23 tháng 3 đã mở cuộc vượt sông Dniestr tại Movchan.[1]

Thống chế Erich von Manstein tăng cường phòng thủ trên tuyến sông Dniestr, con sông rộng thứ hai ở Ukraina. Quân đoàn bộ binh 59 của tướng Kurt von der Chevallerie được điều đến tăng viện cho cánh Bắc của Tập đoàn quân 8 (Đức). Các sư đoàn bộ binh 1, 82 và Sư đoàn pháo binh 18 được điều đến khu vực Mogilev Podolsky. Ngày 22 tháng 3, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Liên Xô yêu cầu I. S. Konev điều các tập đoàn quân cánh trái hướng về phía biên giới Romania để khép chặt sườn với Phương diện quân Ukraina 3. Các tập đoàn quân xe tăng cũng tập trung về hướng Yassy - Kishinev.[30] Trên cánh Bắc, chỉ còn lại Tập đoàn quân 40 làm nhiệm vụ phối hợp với Phương diện quân Ukraina 1. Chính diện của Tập đoàn quân này đã mở rộng thêm đến hơn 40 km. Đến ngày 3 tháng 4, Quân đoàn bộ binh 51 của Tập đoàn quân 40 mới tới được Khotin trong khi Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 (Tập đoàn quân xe tăng 4) đã chờ họ ở đây từ ngày 30 tháng 3. Việc Tập đoàn quân 40 đến Khotin quá muộn và không đủ biên chế đã làm cho Tập đoàn quân xe tăng 4 phải giữ Quân đoàn cơ giới cận vệ 6 tại đây để bảo đảm mật độ của vòng vây. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tập trung binh lực của Quân đội Liên Xô để sớm thanh toán 21 sư đoàn Đức bị vây tại phía Đông Kamenets Podolsky.[31]

Cuộc phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức)

Nếu tính theo đơn vị tác chiến cơ bản thì số sư đoàn Đức bị bao vây tại khu vực phía Đông Kamenets - Podolsky mùa xuân 1944 ngang bằng với số sư đoàn Đức bị vây tại Tây Bắc Stalingrad cuối năm 1942 với tổng số 21 sư đoàn. Tuy nhiên, cánh quân Đức bị vây tại Kamenets - Podolsky có cơ cấu mạnh hơn cánh quân của Thống chế Paulus tại Stalingrad. Nó gồm các sư đoàn bộ binh 1, 68, 75, 82, 96, 101, 168, 254, 291, 371, 291; các sư đoàn xe tăng 1, 6, 7, 11, 16, 17, 19, 20; Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler" và Sư đoàn pháo binh 18. Cụm quân khổng lồ này được bố trí trên hai hướng. Đối đầu với Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) trên hướng Melnitsy Podolsky là các sư đoàn bộ binh 1, 82, 168, 254, 371, 75, 101 và 2 trung đoàn của Sư đoàn pháo binh 18. Phía trước Tập đoàn quân cận vệ 1 và Tập đoàn quân 18 (Liên Xô) trên khu vực Skala Podolsky (???) là các sư đoàn bộ binh 68, 96, 291; các sư đoàn xe tăng 1, 6, 7, 11, 16, 17, 19; Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler"; Sư đoàn cơ giới 20 và 2 trung đoàn của Sư đoàn pháo binh 18. So sánh lực lượng trên chiến trường cũng khác với Chiến dịch Cái vòng (1943). Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) chỉ có sức chiến đấu tương đương với 3 sư đoàn xe tăng Đức. Các tập đoàn quân cận vệ 1, 18 và 38 đều là các tập đoàn quân bộ binh. Lực lượng thiết giáp của các tập đoàn quân này chỉ có 1 lữ đoàn xe tăng và 8 trung đoàn pháo tự hành, trong đó có 2 trung đoàn pháo chống tăng. Trong khi đó, các Sư đoàn xe tăng đang sở hữu 6 tiểu đoàn xe tăng hạng nặng ngoài biên chế 3 trung đoàn xe tăng hạng trung và hạng nhẹ cho mỗi sư đoàn. So sánh binh lực về xe tăng nghiêng về phía Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) với tỷ lệ 1,8:1. Các tập đoàn quân Liên Xô chỉ chiếm ưu thế về pháo binh với tỷ lệ 4:1 và ưu thế không đáng kể về quân số với tỷ lệ 1,2:1.[23]

Như thường lệ, ngày 2 tháng 4, Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 đã dùng máy bay thả những bản sao của cùng một tối hậu thư chiêu hàng đến các sư đoàn Đức trong vòng vây:

Tàn quân của các ông đã hoàn toàn bị bao vây. Các đường rút lui về phía Tây và phía Nam của các ông đã bị quân đội chúng tôi cắt đứt. Để tránh đổ máu vô ích, các ông cần đáp ứng những điều kiện sau đây:1- Các chỉ huy các sư đoàn Đức bị bao vây lập tức hạ lệnh cho sĩ quan và binh sĩ chấm dứt giao chiến.2-Các đơn vị Đức phải đầu hàng và giao nộp nguyên trạng vũ khí, trang bị.3-Những người ra hàng sẽ được bảo đảm an toàn tính mạng, được giữ lại đồng phục, cấp hiệu, huân huy chương và tài sản cá nhân và được cung cấp lương thực, thực phẩm.4- Những người bị thương sẽ được chăm sóc y tế ngay lập tức. Các sĩ quan cao cấp được giữ lại vũ khí cá nhân là quà tặng và đồ trang sức cá nhân có giá trị.Các ông cần phúc đáp thu này trước 10 giờ ngày 4 tháng 4 năm 1944 qua các phái viên không mang vũ khí và cầm theo cờ trắng đến trước trận địa của quân đội Liên Xô
— Nguyên soái Liên Xô Georgy Zhukov, [32]
Sơ đồ cuộc phá vây của quân Đức

Tuy nhiên, các chỉ huy Tập đoàn quân xe tăng 1 Đức không có ý định đầu hàng và họ cũng không chấp hành lệnh cấm rút quân của Hitler. Họ chọn giải pháp tự giải thoát cho mình. Trong một hình bán nguyệt có chu vi đến 150 km phía Bắc sông Dniestr, thượng tướng xe tăng Đức Hans-Valentin Hube nắm trong tay một đạo quân hơn 150.000 người, còn giữ lại được hơn 300 xe tăng, gần 100 pháo tự hành nhưng lại gần như không còn pháo binh. Nhiều tiểu đoàn pháo binh của Sư đoàn pháo 18 đã phải chiến đấu như bộ binh. Hans-Valentin Hube trông chờ vào không quân Đức sẽ bù đắp những thiếu hụt này.[33]

Ngay từ ngày 27 tháng 3, cánh quân phía Nam gồm các sư đoàn bộ binh 1, 68, 75, 82, 96, Sư đoàn xe tăng 17 và Sư đoàn sơn chiến 101 đã thử mở một cuộc đột kích vượt sông Dniestr để qua Khotin rút về hướng biên giới Romania nhưng không thành công. Tập đoàn quân xe tăng 4 và các trung đoàn pháo tự hành 1890, 1899, 1900 (Tập đoàn quân 38) đã có mặt ở bờ Bắc sông Dniestr để cản phá. Ngày 28 tháng 3, quân Đức lùi về Novo Ukraina (???), bỏ lại chiến trường hơn 300 xác lính, 40 xe tăng, 12 pháo tự hành, gần 400 súng máy, hơn 300 ô tô các loại. Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô) bắt 140 tù binh Đức.[27]

Đòn phá vây của Quân đoàn bộ binh 59 (Đức) về hướng Khotin càng làm cho Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 tin tưởng vào các báo cáo của quân báo mặt trận rằng Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) sẽ phá vây về hướng Tây Nam. Nhưng tướng Hans-Valentin Hube đã có một giải pháp khác. Ông ta chọn con đường ngắn nhất: rút về phía Tây. Chọn hướng rút lui này, quân Đức phải vượt qua các con sông Zbruch, Seret, Khoryn và Koropets cũng như các chốt chặn của hai Tập đoàn quân Liên Xô bố trí tại Orinin, Balin, Borshev, Tolstoye, Chertkov nhưng lại là hướng gây bất ngờ cho Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1. Một phương án khác cũng được tướng Wend von Wietersheim đề xuất, đó là chia quân làm nhiều cụm và đồng thời đột phá về các hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam để tăng cơ hội thoát vây. Tướng Kurt von der Chevallerie vẫn kiên trì ý kiến rút theo hướng Tây Nam. Tướng Hans-Valentin Hube để ngỏ phương án này, coi nó như một giải pháp dự bị khi hướng rút lui phía Tây thất bại. Ngày 29 tháng 3, Thống chế Erich von Manstein điện cho tướng Hans-Valentin Hube yêu cầu quyết định sớm vì Cụm tập đoàn quân Nam không còn khả năng tiếp tế một khối lượng hậu cần khổng lồ cho số quân bị vây mà chỉ có thể dùng các đòn đột kích từ bên ngoài hỗ trợ cho các sư đoàn Đức thoát vây. Tướng Hans-Valentin Hube trả lời theo phương án rút về phía Tây và chấp nhận mạo hiểm. Theo kế hoạch, quân Đức chỉ để lại Sư đoàn xe tăng 20 và Sư đoàn bộ binh 371 làm nhiệm vụ cản hậu; các sư đoàn xe tăng, cơ giới đều được điều sang hướng Lyantskorun (???), tạo thành một "lá mộc thép" di động, che chắc phía trước và hai bên sườn cho các sư đoàn bộ binh rút theo sau.[33]

Ngày 31 tháng 3, quân Đức bên ngoài vòng vây bắt đầu hành động. Sư đoàn xe tăng 2 SS Das Reish từ Maryampol (???) công kích vào Lữ đoàn xe tăng 93 (Liên Xô) tại Buchak (Buchach). Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) phá vỡ các vị trí phòng thủ của Lữ đoàn xe tăng 91 tại làng Losyach. Ở phía Bắc, Quân đoàn bộ binh 13 (Đức) sử dụng Sư đoàn xe tăng 7 và các sư đoàn bộ binh 213, 340 mở cuộc tấn công vào Tarnopol. Ngày 1 tháng 4, Quân đoàn bộ binh cận vệ 18 của Tập đoàn quân cận vệ 1 phản kích vào các sư đoàn xe tăng 8 và 2 SS (Đức) tại Buchach nhưng không thành công. Ngày 3 tháng 4, quân đoàn này bị thiệt hại nặng và phải rút xuống phía Nam, đến vị trí phòng ngự của Tập đoàn quân 38. Tại Tarnopol, Tập đoàn quân 60 phản đột kích vào Podgaisty cũng bị Sư đoàn xe tăng 5 SS "Khonstaufen" và Sư đoàn cơ giới 381 (Đức) chặn đứng và bị đánh bật về Tarnopol.[16]

Bên trong vòng vây, ngày 1 tháng 4, các sư đoàn xe tăng 6, 7, 11 và Sư đoàn xe tăng 1 SS "Adolf Hitler" bắt đầu đột kích vượt sông Zbruch. Các sư đoàn xe tăng 1, 16, 17 và 19 hình thành các nhóm trắc vệ yểm hộ hai bên sườn. Đi ở giữa là các sư đoàn bộ binh Đức. Tập đoàn quân 18 hoàn toàn bị bất ngờ trước đòn đột kích của quân Đức và đã để tuyến phòng ngự của họ ở Balin bị vỡ. Lữ đoàn xe tăng 93 (Liên Xô) phải từ tuyến ngoài quay vào phía trong hỗ trợ cho Lữ đoàn cơ giới cận vệ 29 chặn kích nhưng không thể ngăn được "khối thép" gồm 4 sư đoàn xe tăng Đức đang đánh nống từ trong ra. Một trận kịch chiến xe tăng đã xảy ra chiều ngày 1 tháng 4 tại Balin. Hai lữ đoàn cơ giới Liên Xô chỉ có thể giữ được quân Đức đến hết đêm 1 tháng 4. Cả hai bên đều tổn thất nặng về xe tăng. Ngày 2 tháng 4, các sư đoàn xe tăng Đức đã có mặt ở Borshev bên kia sông Khoryn.[27] Thay vì thực hiện các đòn chia cắt vào cụm quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức), Tập đoàn quân xe tăng 4 và Tập đoàn quân 38 (Liên Xô) phải mở cuộc truy kích lên phía Bắc. Từ ngày 2 đến ngày 7 tháng 4, 89 xe tăng và 15 pháo tự hành còn lại của Quân đoàn xe tăng cận vệ 10 đã giao chiến với 3 sư đoàn xe tăng Đức trong các trận đánh đẫm máu tại khu vực Orinin - Zherdyev (Zherdya). Các xe tăng Đức bị bắn hỏng, bắn cháy cũng được sử dụng như các vật cản để ngăn cuộc truy kích của Tập đoàn quân xe tăng 4 (Liên Xô). Các sư đoàn bộ binh và các tướng lĩnh chỉ huy Đức được che chắn bằng các sư đoàn xe tăng đã tháo chạy qua các rào cản xe tăng Liên Xô đổ dồn về Chertkov.[23]

Sơ đồ các đòn đánh chặn của quân đội Liên Xô

Bộ tư lệnh Phương diện quân Ukraina 1 nhận được báo cáo về cuộc phá vây của quân Đức khá muộn, vào chiều ngày 1 tháng 4 và họ hoàn toàn bất ngờ trước quy mô của đòn đột kích phá vây cũng như hướng phá vây của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức). Nguyên soái G. K. Zhukov điện hỏi tướng P. S. Rybalko xem liệu ông có thể cho một quân đoàn xe tăng quay lại chiến trường nhưng không kịp, Tập đoàn quân xe tăng 3 đã về đến Kiev. Ngày 2 tháng 4, Tập đoàn quân xe tăng 1 (Liên Xô) lập tức được lệnh điều động Quân đoàn xe tăng 11 quay về phía Bắc. Dự kiến phải đến ngày 4 tháng 4, Quân đoàn này mới có thể tiếp cận vị trí bị đột phá. Trong khi đó, Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô) đã để mất cây cầu đường sắt qua sông Koropets ở Chertkov và quân Đức lũ lượt kéo qua cây cầu này. Quân đội Liên Xô chỉ còn cách sử dụng không quân và pháo binh dựng màn đạn bắn chặn đường rút lui của quân Đức. Một sĩ quan tham mưu của Sư đoàn xe tăng 16 (Đức) bị bắt làm tù binh cho biết, họ được lệnh vứt lại tất cả mọi vũ khí hạng nặng để dùng xe cơ giới hạng nhẹ có bánh xích chạy thoát cho nhanh. Ngày 4 tháng 4, Lữ đoàn xe tăng cận vệ 44 đến khu vực Chertkov nhưng không đủ sức giành lại cây cầu đường sắt. Chỉ huy lữ đoàn, đại tá G. A. Gasparyan phải chuyển sang đánh phá các bến vượt sông của bộ binh Đức tại Biala Kernitsy (???) và Lenchuvky (???). Ngày 5 tháng 4, Lữ đoàn xe tăng 45 (Quân đoàn xe tăng cận vệ 11) cũng tới nơi nhưng đã muộn. Phần lớn số quân Đức thoát vây đã sang bên kia sông Koropets và đánh vào sau lưng Tập đoàn quân cận vệ 1 (Liên Xô). Sư đoàn bộ binh 359 của Quân đoàn bộ binh 107 (Liên Xô) có nguy cơ bị bao vây do chịu các đòn công kích của quân Đức cả từ hướng Buchak và từ hướng Chertkov. Lữ đoàn xe tăng 45 cùng với Lữ đoàn xe tăng cận vệ 13 (Quân đoàn xe tăng cận vệ 4) đã kịp thời giải vây cho Sư đoàn bộ binh 359.[22]

Từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 2, các trận đánh chặn đẫm máu tiếp tục diễn ra trên những con đường mòn từ Chertkov đi Buchach. Chiến sự diễn ra khắp khu vực Bilchye (???), Gypsiets, Losyach (???), Davidkovtsy (???) và Ezerzhany (???). Đây là nhóm quân Đức lớn nhất trong các nhóm quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 đang tháo chạy về phía Tây. Nó gồm hơn 30.000 người, gần 200 xe tăng, hơn 4.000 ô tô các loại nhưng không còn pháo binh. Các lữ đoàn xe tăng 44, 45 (Tập đoàn quân xe tăng 1), các lữ đoàn cơ giới cận vệ 16, 17, 29 (Tập đoàn quân xe tăng 4) liên tục tập kích vào bên sườn các sư đoàn xe tăng Đức đang yểm hộ cho bộ binh rút lui. Tuy nhiên, bản năng sống đã thôi thúc các sĩ quan và binh lính Đức chống trả kịch liệt. Các lữ đoàn xe tăng, cơ giới Liên Xô không thể chia cắt được khối quân Đức đang ùn ùn rút lui. Dòng thác ô tô, xe máy đủ loại của quân Đức liên tục đổ về phía Tây, bất chấp pháo binh Liên Xô trút hỏa lực bắn chặn trên dọc đường rút lui.[26] Ngày 15 tháng 2, tàn quân của Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) về đến Maryampol và Stanislav (Stanislavka) với không quá 50% quân số các sư đoàn còn sống sót, kể cả những người bị thương. Tổn thất vật chất gồm 357 xe tăng, 42 pháo tự hành và 280 khẩu pháo.[33]

Ngày 17 tháng 2, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quân đội Liên Xô lệnh cho Phương diện quân Ukraina 1 chuyển trạng thái sang phòng ngự tích cực.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_tấn_công_Proskurov–Chernovtsy http://www.armchairgeneral.com/rkkaww2/maps/1944SW... http://ww2stats.com/cas_ger_okh_dec44.html http://www.history.army.mil/books/wwii/20234/20-23... http://9may.ru/17.04.1944/inform/m4453 http://bdsa.ru/index.php?option=com_easygallery&ac... http://militera.lib.ru/h/ergos/15.html http://militera.lib.ru/h/ergos/19.html http://militera.lib.ru/h/fuller/08.html http://militera.lib.ru/h/getman_al/06.html http://militera.lib.ru/h/grylev_an/03.html